Vấn đề quan trọng đầu tiên là tình
hình kinh tế - xã hội năm 2017, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của năm
2018. Trong 9 tháng đã qua của năm 2017, kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục chuyển biến tích cực,
khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng khá, quý sau cao hơn quý trước; quý III tăng
7,46%, nâng mức tăng trưởng bình quân 3 quý lên 6,41%. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn
định, lạm phát được kiểm soát. Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo
đảm; kỷ luật, kỷ cương về tài chính - ngân sách nhà nước được tăng cường. Thị
trường tiền tệ ổn định; thị trường chứng khoán có nhiều khởi sắc; xuất khẩu đạt
154 tỉ đô la. Cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh chuyển biến
rõ rệt; sản xuất công nghiệp lấy lại đà tăng trưởng, sản xuất nông nghiệp phục
hồi, có mức tăng trưởng khá. Văn hoá - xã hội có nhiều khởi sắc. Dự báo, đến cuối năm 2017, có thể hoàn thành và hoàn
thành vượt mức toàn bộ 13 chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, nhiều khó khăn, thách thức đang ở phía trước. Thâm hụt ngân sách và nợ
công vẫn ở mức cao. Nợ xấu ngân hàng còn lớn; xử lý các tổ chức tín dụng yếu
kém và nợ xấu chưa căn bản và triệt để. Phân bổ và giải ngân vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước, nhất là vốn trái phiếu chính phủ, vốn ODA còn chậm. Nhiều dự án,
doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, thất thoát. Nhiều vấn đề xã hội còn yếu kém, bất
cập. Năm 2018, chúng ta cần tiếp tục giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thực hiện ba đột phá chiến lược,
đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất
lao động và sức cạnh tranh, bảo đảm an sinh xã hội. Đặc biệt, cần có chiến lược
ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, chống thiên tai, tăng
cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn giao thông, an
toàn thực phẩm. Đẩy mạnh cải cách hành chính, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy
mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm quốc phòng, an
ninh quốc gia; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, phát triển. Cần đẩy mạnh
việc xây dựng, hoàn thiện thể chế; tăng cường kỷ cương, kỷ luật; cải cách hành
chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh; tiếp tục cơ cấu lại thu
- chi ngân sách nhà nước, kiểm soát bội chi và giữ mức nợ công trong ngưỡng cho
phép. Xử lý căn bản, triệt để, hiệu quả
các công trình, dự án, doanh nghiệp nhà nước thua lỗ kéo dài, các ngân hàng
thương mại yếu kém, nợ xấu ngân hàng và nợ đọng xây dựng cơ bản. Phát triển
kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực rất quan trọng của nền kinh tế.
Vấn
đề quan trọng thứ hai - Nghị quyết “Một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả”. Trong thời gian tới, toàn hệ thống chính trị phải chủ
động, tích cực, gương mẫu và vào cuộc quyết liệt, coi đó là nhiệm vụ cơ bản,
quan trọng, cấp bách, được đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước trước yêu cầu mới. Thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ
máy, biên chế của hệ thống chính trị; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Chú ý bảo đảm
tính đổi mới, tổng thể, hệ thống, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hoà giữa kế
thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; đổi mới tích cực, mạnh mẽ, nhưng không
nôn nóng từ cực này nhảy sang cực khác, không bi quan khi đương đầu với nhiều
khó khăn; gắn đổi mới bộ máy tổ chức với đổi mới phương thức lãnh đạo, với tinh
giản biên chế và cải cách tiền lương; xử lý hài hoà mối quan hệ giữa nhà nước,
thị trường và xã hội. Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức tổng
thể của hệ thống chính trị ở nước ta phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể
trong giai đoạn mới; trên cơ sở đó xác định những công việc cần thiết và có thể
triển khai thực hiện ngay. Rà soát, quy định
chặt chẽ hơn về biên chế, số lượng cán bộ, công chức, viên chức; chú ý quy định
số lượng cấp phó tối đa của mỗi tổ chức phù hợp với đặc điểm của từng cấp, từng
ngành, từng địa phương. Xây dựng cơ chế cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch,
đúng đắn trong tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ để thu hút người thực sự có
đức, có tài vào làm việc trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Rà soát,
sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên trong của các tổ chức này theo nguyên
tắc một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc; một việc chỉ do một tổ chức chủ
trì và chịu trách nhiệm chính, gắn với việc tái cơ cấu, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giảm tỉ lệ người phục vụ, nhất là khối hành
chính. Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp
lý giữa cấp trên với cấp dưới, giữa Trung ương và địa phương. Xây dựng cơ chế
kiểm soát chặt chẽ quyền lực bằng các quy định của pháp luật, bảo đảm dân chủ,
công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn
đốc, đề cao trách nhiệm giải trình, xử lý; xây dựng chế tài đủ mạnh; xử lý
nghiêm những tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu vi phạm, sai phạm. Đẩy
mạnh cải cách hành chính, ứng dụng rộng rãi khoa học - công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin phục vụ lãnh đạo, điều hành; tinh giản tổ chức bộ máy, biên chế.
Thực hiện giao và quản lý chặt chẽ biên chế trên cơ sở phân loại tổ chức, xác định
rõ vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên chức. Tiến
hành tổng kết việc thi tuyển, bổ nhiệm, sử dụng, đánh giá và thực hiện chế độ,
chính sách đãi ngộ phù hợp.
Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra của Đảng
với thanh tra của Nhà nước, sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan dân cử. Tập trung ưu tiên triển khai ngay những việc đã rõ, đã chín, có cả
cơ sở lý luận và thực tiễn. Đó là việc kết thúc hoạt động của các Ban Chỉ đạo
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; tổ chức, sáp nhập Đảng bộ Ngoài nước và Đảng bộ
Bộ Ngoại giao. Đẩy mạnh xây dựng tổ chức
đảng và phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài nhà
nước. Cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch Hội đồng
nhân dân; thực hiện bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện,
cấp xã những nơi có đủ điều kiện. Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý đi đôi
với xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực và chế độ kiểm tra, giám sát chặt chẽ.
Các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ rà soát, chuyển giao một số nhiệm vụ và dịch vụ
công cho doanh nghiệp, người dân đảm nhiệm. Tiếp
tục hoàn thiện thể chế về chính quyền địa phương theo hướng phân định rõ hơn tổ
chức chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Vấn đề
quan trọng thứ ba, Nghị quyết về “Tiếp
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả các đơn
vị sự nghiệp công lập”. Cùng
với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, công việc này
có tầm quan trọng không kém, được ưu tiên chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới.
Nhà nước phải chăm lo bảo đảm cung cấp dịch
vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu; nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ sự nghiệp
công cho mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước;
giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt
đẹp của các đơn vị sự nghiệp công lập. Đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các
ngành, lĩnh vực mà khu vực ngoài công lập làm được và làm tốt; huy động và sử dụng
có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển lành mạnh thị trường dịch vụ sự
nghiệp công; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và
ngoài công lập. Trong quá trình đổi mới, sắp xếp, phải bám sát đặc điểm
tình hình của từng ngành, lĩnh vực, địa bàn, đẩy mạnh xã hội hoá, nhưng không thương mại hoá lĩnh vực dịch vụ sự
nghiệp công. Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp
khoa học - công nghệ có đủ điều kiện thành doanh nghiệp, bao gồm cả hình thức
công ty cổ phần. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế
tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,
nhân sự và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Chú ý rà soát, hoàn
thiện cơ chế, chính sách phù hợp với từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công và từng
loại hình đơn vị sự nghiệp công lập. Đổi mới, tăng cường chế độ kế toán, hạch
toán, kiểm toán, kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập, về cơ bản tương tự như đối với doanh nghiệp nhà nước. Phân định rõ hoạt
động thực hiện nhiệm vụ chính trị, hoạt động sự nghiệp do Nhà nước giao với hoạt
động cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của xã hội. Ngân sách nhà nước bảo đảm đầu tư cho các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu
và các đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự
nghiệp công ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Khẩn
trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp
luật về công chức, viên chức; rà soát, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tinh giản biên
chế; đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập
theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp
công lập và việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Giảm mạnh sự can thiệp hành
chính của cơ quan chủ quản vào hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị sự
nghiệp công lập. Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước chuyên
ngành với nhau và với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính các cấp
trong quản lý ngân sách nhà nước chi cho lĩnh vực sự nghiệp. Quy định rõ quyền
hạn gắn với trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn
vị, đặc biệt là người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Kiên quyết xử lý
nghiêm các vi phạm, sai phạm.
Vấn đề quan trọng thứ tư, Nghị quyết về tăng cường
công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới”. Việc bảo
vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ là trách
nhiệm của mỗi người dân, từng gia đình, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội;
đòi hỏi sự tham gia tích cực, chủ động của các cấp uỷ đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó ngành Y tế là lực
lượng nòng cốt hàng đầu. Nhà nước cần phát huy vai trò chủ đạo của các bệnh viện và cơ sở
y tế công lập trong việc tổ chức cung cấp dịch vụ y tế, bảo đảm các dịch vụ cơ
bản cho đông đảo nhân dân, đồng thời khuyến khích cung cấp dịch vụ theo yêu cầu.
Tập trung ưu tiên đầu tư từ ngân sách và
có cơ chế, chính sách phù hợp huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã
hội để phát triển y tế và các dịch vụ liên quan đến bảo vệ, chăm sóc, nâng cao
sức khoẻ nhân dân. Không ngừng phấn đấu nâng cao sức khoẻ, tầm vóc, tuổi thọ,
chất lượng cuộc sống của người Việt Nam; bảo đảm mọi người dân đều được bảo vệ,
chăm sóc, nâng cao sức khoẻ; bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc tham gia
và hưởng thụ bảo hiểm y tế và các dịch vụ có liên quan. Phát triển nền y học Việt Nam khoa học, dân
tộc, đại chúng; xây dựng nền y tế công bằng, nhân văn, hiệu quả, chất lượng và
hội nhập. Phát triển cân đối, đồng bộ giữa y tế phổ cập và y tế chuyên sâu, giữa
dân y và quân y, gắn kết y học cổ truyền với y học hiện đại. Thực hiện phòng bệnh
hơn chữa bệnh; y tế dự phòng là then chốt; y tế cơ sở thực sự là nền tảng.
Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ sở y tế hiện
có của Nhà nước, bao gồm cả dân, quân y, gắn với khuyến khích hợp tác công -
tư, phát triển lành mạnh y tế ngoài công lập; xây dựng hệ thống y tế rộng khắp,
gần dân, tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội cần chủ động, tích cực, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phong trào toàn dân tham gia rèn luyện
thân thể; cải thiện điều kiện sống, lối sống và làm việc; bảo vệ môi trường
sinh thái và vệ sinh an toàn thực phẩm; thường xuyên luyện tập thể dục, thể
thao, sinh hoạt điều độ, lành mạnh. Tăng cường y tế dự phòng, nâng cao sức
khoẻ gắn với đổi mới, phát huy vai trò của hệ thống y tế cơ sở, góp phần khắc
phục tình trạng quá tải các bệnh viện, nhất là tuyến trên. Nâng cao chất lượng
khám, chữa bệnh; nâng cao y đức; phát triển ngành dược và thiết bị y tế, bảo đảm
đủ thuốc tốt và thiết bị bảo đảm chất lượng. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực
và khoa học ngành Y. Nâng cao năng lực nghiên cứu, triển khai ứng dụng, chuyển
giao khoa học, công nghệ, kỹ thuật y tế, dược, sinh học. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách tài chính y tế, đặc biệt là sớm thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân; đổi mới phương thức chi ngân sách nhà nước cho y tế;
đổi mới cơ chế về giá, phí dịch vụ phù hợp, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường, khắc phục tình trạng thương mại hoá dịch vụ
khám, chữa bệnh. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về y tế gắn
với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Vấn
đề quan trọng thứ 5, Nghị quyết về “Công tác dân số trong tình hình mới”. Những năm qua, nước ta có nhiều nỗ lực và thành tựu trong công
tác dân số - kế hoạch hoá gia đình. Chúng ta đã khống chế thành công tốc độ gia
tăng dân số, sớm đạt và duy trì được mức sinh thay thế. Cơ cấu dân số, cơ cấu
lao động chuyển dịch tích cực. Nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ dân số vàng từ
năm 2007 và dự kiến đạt đỉnh cao vào khoảng năm 2020 - 2030 với số người trong
độ tuổi lao động chiếm khoảng 70% dân số. Chất lượng dân số được cải thiện về
nhiều mặt. Tầm vóc, thể lực của người Việt Nam từng bước được cải thiện. Tuổi
thọ trung bình tăng đáng kể (từ 65,3 tuổi lên 73,4 tuổi). Dịch vụ dân số - kế
hoạch hoá gia đình được mở rộng, chất lượng ngày càng cao. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hoá, đô thị hoá, công
nghiệp hoá dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và biến đổi
khí hậu, thay đổi về điều kiện, lối sống, môi trường sống, làm việc và môi trường
sinh thái đã và đang dẫn đến những thay đổi nhanh chóng về mô hình gia đình, kết
hôn, ý thức và khả năng sinh sản, tăng nhanh quá trình di cư... Chính sách
hạn chế mức sinh của ta kéo dài, rộng khắp cả nước bắt đầu bộc lộ những hệ luỵ
cần sớm được khắc phục. Cần có sự đổi mới
mạnh mẽ về tư duy, cách làm để giải quyết toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả các vấn
đề về dân số. Phấn đấu duy trì ổn định vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ lệ
giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; duy trì và tận dụng có hiệu quả lợi
thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hoá dân số, nâng cao chất lượng dân số,
phân bố dân số phù hợp với quá trình phát triển. Tiếp tục chuyển trọng tâm
chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển; chú trọng
toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối
quan hệ gắn bó hữu cơ với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh. Coi công tác dân số và phát triển là nhiệm vụ của toàn dân; đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho
phát triển bền vững; Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh
xã hội hoá; tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của quốc tế, bảo đảm nguồn lực cho
công tác dân số. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận
động mỗi cặp vợ chồng nên có hai con, bảo đảm quyền và trách nhiệm trong việc
sinh và nuôi dạy con tốt để duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước với
quy mô dân số hợp lý (khoảng 104 triệu người vào năm 2030). Tập trung ưu
tiên vận động sinh ít con hơn ở vùng có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những
nơi đã đạt mức sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp. Ngăn
ngừa tư tưởng, tâm lý không hạn chế số lần sinh con đang nổi lên những năm gần
đây.
Đổi
mới nội dung tuyên truyền vận động về công tác dân số và phát triển. Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách; phát triển mạng lưới và
nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng
lực đội ngũ cán bộ dân số, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Vấn
đề quan trọng thứ sáu, đó là công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ
Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục chỉ đạo, thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
Trong sáu nhiệm vụ trọng
tâm của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trong nhiệm kỳ Đại hội XII
(2016 - 2020), nhiệm vụ trọng tâm số 1 là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Trong các biểu hiện đó,
nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã
hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói trái, làm trái quan điểm của
Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu
tranh, phụ họa theo những quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết
lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao, không thực
hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Sự suy thoái về đạo đức, lối
sống còn thể hiện ở chỗ sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham
nhũng, tham quyền lực, bè phái cục bộ, mất đoàn kết, tư duy nhiệm kỳ, lợi ích
nhóm, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn bức xúc của dân. Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn,
nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu,
thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc".
Nhận diện đúng là để suy ngẫm và hành động. Không phải để bi quan
hay nhụt chí, mà là để sẵn sàng cho một cuộc chiến đấu mới rất quyết liệt trong
thời gian tới, vì sự trong sạch, vững mạnh của Đảng.đã thảo luận, đánh giá cao
việc chuẩn bị và thống nhất cao với đề nghị của Bộ Chính trị về việc bầu bổ
sung 2 Uỷ viên Ban Bí thư khoá XII. Đồng chí Phan Đình Trạc, Uỷ viên Trung ương
Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng; và đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên
Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch
Hội đồng Lý luận Trung ương đã trúng cử với số phiếu rất tập trung. Ban Chấp
hành Trung ương yêu cầu các đồng chí mới được bổ sung vào Ban Bí thư cần phát
huy tốt hơn nữa tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân, không ngừng nỗ lực
phấn đấu, rèn luyện, đóng góp nhiều hơn nữa vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt là trên lĩnh vực công tác quan trọng
được Đảng phân công.
Ban Chấp hành Trung ương cũng đã tiến hành xem xét thi hành kỷ luật
đối với đồng chí Nguyễn Xuân Anh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng
bằng hình thức cách chức Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng, cách chức Uỷ viên Ban Thường
vụ, Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng nhiệm kỳ 2015 - 2020 và cho
thôi giữ chức Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII vì đã có những
khuyết điểm, vi phạm rất nghiêm trọng. Dư luận đại đa số cán bộ, đảng viên và
nhân dân cho rằng đây là mức kỷ luật vừa nghiêm khắc vừa nhân văn, thấu lý đạt
tình, tâm phục khẩu phục, có tác dụng giáo dục, cảnh tỉnh, cảnh báo, phòng ngừa
chung rất sâu sắc.
Đây là bài học đau xót cần nghiêm túc rút kinh nghiệm không chỉ đối
với đồng chí Nguyễn Xuân Anh mà là bài học chung đối với tất cả chúng ta. Đề
nghị từng đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và mọi cán bộ, đảng viên,
công chức cần thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, thường xuyên tự soi, tự sửa, tự
răn mình, tránh xa những cám dỗ vật chất, tham vọng, tránh đi vào vết xe đổ, để
tay nhúng chàm (và nếu đã trót ít nhiều nhúng chàm rồi thì sớm tự giác gột rửa).
Từ nay trở đi, bất cứ trường hợp nào mà vi phạm kỷ luật, chúng ta phải xử lý
nghiêm, làm nghiêm từ trên xuống dưới để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để
lấy lại và củng cố lòng tin và tình thương yêu, quý trọng của nhân dân.
Vì sao việc xử lý một số vụ án, xử lý kỷ luật một số cán bộ, kể cả
cán bộ cao cấp trong thời gian gần đây lại được đông đảo cán bộ, đảng viên, các
đồng chí lão thành, cán bộ hưu trí và nhân dân đồng tình, ủng hộ đến như thế? Cần
khẳng định, ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược
lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII diễn
ra trong bối cảnh đất nước ta đang có nhiều chuyển biến tích cực, khá toàn diện
và đồng bộ kể từ sau thành công Đại hội XII của Đảng. Trong gần 2 năm qua, nhất
là năm 2017, toàn hệ thống chính trị đã tích cực vào cuộc, đoàn kết, thống nhất,
trên dưới một lòng, kiên trì, kiên quyết triển khai thực hiện các nhiệm vụ chiến
lược: Phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Quan hệ đối ngoại được mở rộng; uy
tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Có thể nói, việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chiến lược do Đại
hội XII của Đảng đề ra đã và đang thực sự trở thành phong trào cách mạng sâu rộng
trong cả nước, nhận được sự hưởng ứng, tham gia nhiệt tình, tích cực của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta, tạo khí thế mới, động lực mới cho sự nghiệp đổi mới,
xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, trước mắt chúng ta còn rất nhiều khó khăn, thách thức. Chúng ta cần
tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc hơn, bài bản hơn và có hiệu quả cao
hơn Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các nghị quyết Trung ương khoá XII và đặc
biệt là các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Trung ương lần này để phát huy những
kết quả, thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại,
hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt đề ra cho năm 2017 - 2018 và
các năm tiếp theo.
Hội
nghị của chúng ta bàn nhiều vấn đề lớn, khó, quan trọng và rất phức tạp, nhưng
đã thành công tốt đẹp. Tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XII. Chúc các đồng chí mạnh khoẻ, hoàn thành tốt trọng
trách trước Đảng, nhân dân và đất nước.